CHUYỆN ÔNG TƯ CHẾT MÀ
VUI
Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười : Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi... Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin ? Về với Chúa là khổ lắm sao ? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn ?
Nếu có ai biết ông Tư
đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui mà an ủi họ - chứ
không phải là họ an ủi ông - rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì khi chết được về
thiên đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết ?
Nếu theo đạo Phật, thì
khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình, thì mừng vui chứ sao
lại bi ai ? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có
thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi,
thì nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang
thân xác mới hơn.
Ông Tư nói với bạn
rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che
được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn.
Bởi vậy, ông bình tỉnh
đón chờ cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên,
ông lặng người đi. Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai
con đường để lựa chọn.
Một là rầu rĩ bi ai,
than thân trách phận, oán thán trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại
trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền. Hai là bình tỉnh chấp nhận điều không thể
tránh được với thái độ tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại
thành tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương
vướng bận.
Ông chọn con đường
sau, nên không buồn bả, không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng
đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn
lại.
Mỗi sáng dậy, ông ca
hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp lòng mọi người,
vì ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, thì dù có muốn tử tế với những
người thân thương, cũng không còn làm được nữa.
Ông Tư dặn thêm vợ
rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần
xa, buộc họ phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa
tờ báo cho bà, và nói:
Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười : Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi... Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin ? Về với Chúa là khổ lắm sao ? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn ?
Đáng ra phải cáo phó
bằng câu : " Chúng tôi hoan hỉ báo tin cùng thân bằng quyến thuộc rằng, Ông
Nguyễn văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày, tháng, năm,..". Và đây, một cáo phó
khác, cũng " khóc báo " với thân bằng quyến thuộc là thân nhân chúng tôi đã về
cõi Phật. Về cõi ma vương quỷ sứ mới khóc báo, chứ về cõi Phật, sướng quá, mà
khóc cái nỗi gì ?
Mất cái gì mới ngại,
chứ mất cái khổ đau hành hạ, thì cầu cho mất sớm, mất đi càng nhiều càng mau,
càng tốt. Anh nghe nói người Lào có quan niệm rất hay về lẽ sống sự chết. Khi
trong gia đình có người chết, họ không bao giờ khóc lóc rầu rĩ, mà bình tỉnh an
nhiên, chắc rằng họ đã thấm nhuần cái lẽ thâm sâu của Phật giáo, biết chết là
giải thoát, rũ sạch nợ đời.
Cuộc đời, có thể ví
như một đêm, không đi ngủ lúc chín mười giờ, thì mười hai giờ, một giờ sáng cũng
phải đi ngủ. Nếu đêm không vui, thì tội gì không đi ngủ sớm cho khỏe, mà phải
thức để nỗi buồn gặm nhấm.
Nếu đêm nay đau răng
thì cố thức làm gì, ngủ sớm đi mà quên đau. Nhiều người sống với thái độ như sẽ
không bao giờ chết, cho nên tích tụ của cải, bao nhiêu cũng không vừa, làm nhiều
điều không đúng, không phải. Bỡi vậy , khi biết mình sắp chết, thì hốt hoảng
khóc lóc, bi ai, mà vẫn không tránh được. Nhiều vị vua chúa đời xưa cũng muốn
sống đời, nên uồng thuốc trường sinh, mà ngộ độc chết sớm.
Thấy ông tươi vui,
người biết ông có bệnh sắp chết, cũng quên mất là ông đang bệnh, người không
biết bệnh trạng của ông, thì ông cũng không muốn nói ra làm gì. Ông đưa bà và
hai con đi chơi một chuyến trên du thuyền. Ông tham gia các cuộc chơi tập thể
trên du thuyền như hát hò, nhảy múa ca hát, tham gia các buổi hòa nhạc, uống
rượu, cho đến khi mãn cuộc. Ông vui vẻ, bình tĩnh đến nỗi nhiều khi bà quên mất
là vợ chồng không còn bên nhau bao lâu nữa.
Ông Tư chuẩn bị tinh
thần cho vợ, cho con, để chấp nhận một sự thực không tránh được. Chấp nhận với
sự bình tỉnh, sáng suốt, không vui vẻ nhưng không bi ai. Có người nói cho ông Tư
nghe về kinh nghiệm của những kẽ đã chết thật rồi, mà sống lại nhờ sự mầu nhiệm
nào đó. Rằng khi chết, thì thấy mình đi vào một vùng ánh sáng lạ, rất hân hoan
sung sướng, khoái cảm tràn trề. Bỡi vậy, nên người đã trãi qua cận tử, thì không
cón sợ chết nữa, mà đón nhận như là một ân huệ của trời đất.
( Về việc đóng tiền
cho người khác để mua hòm và mai táng )
Kêu gọi thì tôi đóng
tiền, chứ thực tình trong lòng tôi nghĩ khác. Chết thì hỏa thiêu là đẹp nhất,
tốt nhất và lại vệ sinh. Chôn xuống đất cho dòi bọ nó rúc rỉa, cho sình thối chứ
có được gì. Một vạn cái xác, mới có được một cái không thối rữa, mà cũng khô đét
nằm nhăn răng ra, hôi hám xấu xí. Nằm chật chội trong tối tăm âm u, dưới đất
lạnh lẽo, chứ có sung sướng gì đâu.
Rồi lâu ngày, thịt da
cũng rữa, xương cũng mục. Được bao nhiêu năm ? Mà cứ nghĩ kỹ xem, nếu mỗi người
chết phải có một nấm mồ chừng hai thước vuông, thì trên thế giới nầy từ triệu
năm trước đến nay, và nhiều triệu năm sau nữa, tỉ tỉ người đã chết và sẽ chết,
lấy đâu ra đất mà chôn. Không lẽ cả thế giới nầy chẵng còn một tấc đất mà trồng
trọt, nhịn đói chết hết sao?
Nhiều xứ văn minh hiện
nay, người ta thiêu xác. Bên Nhật, bên Tàu, Ấn Độ và nhiều xứ khác nữa, người
chết được hỏa thiêu. Đạo Phật chính tông, thì các tăng ni đều được hỏa táng,
nhưng những người theo đạo Phật nửa vời, thì lại chôn cất. Bày đặt ma chay linh
đình cho thêm tốn kém.
Bạn ông Tư hỏi : - Có
phải người theo đạo Chúa không dám hỏa táng ? Nghe đâu họ tin có ngày phán xét
cuối cùng, và được sống lại. Bỡi vậy nên phải giữ thân thể, không muốn thiêu tan
thành tro bụi.
Ông Tư cười lớn nói
:
- Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, thì sắt đá cũng đã mũn ra tro bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh? Có lẽ những kẽ mê tín, kém hiểu biết, diễn dịch sai ý nghĩa của kinh Thánh chăng ? Mà dù cho xương cốt có còn, thì cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống lại trên bộ xương đó được ?
- Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, thì sắt đá cũng đã mũn ra tro bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh? Có lẽ những kẽ mê tín, kém hiểu biết, diễn dịch sai ý nghĩa của kinh Thánh chăng ? Mà dù cho xương cốt có còn, thì cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống lại trên bộ xương đó được ?
Bỡi thế, nên tôi cho
hỏa thiêu là sạch sẽ và tiện lợi nhất.
Câu chuyện bàn rộng
đến phong trào Việt Kiều về quê xây lăng mộ cho thân nhân, cho tổ tiên, đến nỗi
có nhiều làng thi đua xây cất cho nguy nga, cho to lớn. Thấy lăng mộ người khác
lớn hơn, thì đập cái cũ ra, xây lại cho lớn, cho đồ sộ hơn. Có nơi người ta đặt
tên là Làng Ma, vì toàn cả lăng mộ.
Ông Tư cho rằng, xây
lại mồ mả cho tổ tiên để báo hiếu, cũng là một hành động tốt, không có chi sai
trái. Nhưng thi đua nhau xây và xây cất có tính cách phô trương thì chỉ làm trò
cười cho thiên hạ. Liệu những phần mộ kia đứng vững được bao nhiêu năm, và còn
được con cháu chăm sóc đến bao giờ ?
Rồi cũng có ngày trở
thành hoang phế, chẵng ai đoái hoài đến, mà mục rữa với thời gian. May ra, những
nơi thiêng liêng như đền quốc tỗ Hùng Vương, lăng mộ các bậc anh hùng giữ nước,
dựng nước, mới được con cháu tiếp tục tu sửa chăm nom. Thế mà cũng có còn tả
tơi, tàn tạ, không ai chăm nom.
Huống chi mình, là thứ
thường dân, vô danh tiểu tốt, chưa làm được gì. Chưa kể những kẽ là tội đồ của
dân tộc, bày đặt xây lăng ướp xác, như các ông lảnh tụ cọng sản từ Âu sang Á, từ
từ rồi mồ mã cũng bị phá bỏ , san bằng. Bỡi thế, ông Tư dặn vợ con đừng xây mộ,
tạc bia cho ông làm chi.
Ông Tư mượn bài thơ
của ông bạn về đánh máy và sắp xếp lại cho đẹp, in ra nhiều bản, phóng ra một
bản lớn, để dành khi ông chết sẽ sử dụng.
Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông Tư qua đời mà không đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết. Có người mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử.
Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông Tư qua đời mà không đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết. Có người mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử.
Trong giới bạn bè thân
tình, có người nói là ông Tư đã tự chọn lấy con đường ra đi nhẹ nhàng, không để
bệnh hoạn hành hạ trước khi chết. Ông Tư thường đùa rằng, còn nước thì còn tát,
biết là dù có tát thì thuyền cũng chìm, thì quẳng gàu đi cho đở mệt trước khi
thuyền chìm.
Bà con bạn bè đến
viếng tang ông Tư tại nhà, khi bước vào cỗng, họ cố sửa soạn lại bộ mặt cho có
vẽ buồn rầu, nghiêm nghị, để hợp với cảnh tang ma, dù trong lòng họ không có
chút bi ai nào. Nhưng họ nghe có tiếng nhạc vui đang rộn rã vẵng ra từ bên
trong, hòa với tiếng nhạc là tiếng cười vui vang vang, tiếng ồn ào. Người nào
cũng giật mình, vội vả xem kỹ lại số nhà, sợ đi lầm.
Vào nhà, mỗi khách
viếng tang được phát một tờ giấy màu hồng, bên trên ghi bài thơ Khi Tôi Chết .
Bài thơ cũng được chụp phóng lớn, dán trên tấm bảng che kín cả một bức tường.
Khách và chủ đang vui vẻ chuyện trò, cười đùa.
Không thấy quan tài
ông Tư đâu cả. Trên bệ thờ có cái ảnh ông Tư phóng lớn, miệng cười toe toét, tóc
bù gió lộng. Trước tấm ảnh có cái hộp vuông chứa tro xương của ông Tư. Tiếng
nhạc vui vang vang từ máy hát. Bài thơ in đậm nét:
Khi Tôi
Chết
Nếu làm biếng, cứ nằm
nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì.
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì.
Tôi đi trước, hẹn gặp
nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẽ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẽ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.
Nếu có khóc, khóc cho
người còn lại,
Bỡi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình , lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.
Bỡi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình , lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.
Đừng đăng báo, phân
ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,
Trỗi nhạc vui cho
người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không.
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không.
Đừng xây mộ, khắc bia
ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai.
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai.
Khi tôi chết đừng ma
chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê.
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê.
Thì cũng C, H, O, N
kết lại,
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì,
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái,
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì,
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái,
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.
Khi đọc xong bài thơ,
có người thì mĩm cười, có người vui hẵn, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng
bài thơ đã nói hết ý nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn
rầu, thương tiếc, thì việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên
mặt.
Vợ con người chết cũng
không tỏ vẽ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một tiếng khóc lóc, thở than.
Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng
giờ cử hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp
tay bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười
và nói :
-Thưa các cụ, cô bác
chú dì, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám ơn quý vị đã có lòng
đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện của người quá cố.
Không làm tang lễ theo tục lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của
Ba chúng tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn
bè.
Ba chúng tôi đã bình
tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh được . Trong những
ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho
chính ông. Ông đã dặn dò chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì
sự thực không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho
bà con cô bác nghe.
( Ông Tư đọc bài thơ
trên )
Giọng Huế của ông Tư
đọc chậm và ngân dài những đoạn ông đắc ý : Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó . Ai
thay da mãi mãi sống muôn đời, Kẽ trước người sau xếp hàng xuống mộ, biết đâu là
khởi điểm cuộc rong chơi. Cuối cùng, có một tràng cười ha ha của ông Tư để chấm
dứt bài thơ.
Sau bài thơ, có ba ông
người Mỹ, hai ông da đen, một ông da trắng, cầm đàn và kèn trỗi lên mấy khúc
nhạc vui, các ông nhún nhẫy uốn éo, nhiều lúc dậm chân xuống sàn. Ba ông cùng
lúc lắc, làm hàng một, đi quanh phòng khách, như múa lượn trước bàn thờ ông Tư.
Những ông nầy, là bạn chơi nhạc với ông Tư tại các quán ca nhạc ban
đêm.
Một bạn thân của ông
Tư, quen nhau từ thuỡ trung học, đại diện bà con, đến trước bàn thờ, vỗ vào hộp
tro xương, cười ha hả và nói:
- Tư ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận tường lẽ huyền vi của tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống cũng dám làm, mà chết rồi cũng dám làm, và làm được. Tôi cũng ước mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho tôi một đám tang như thế nầy, thì vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ làm thật.
- Tư ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận tường lẽ huyền vi của tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống cũng dám làm, mà chết rồi cũng dám làm, và làm được. Tôi cũng ước mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho tôi một đám tang như thế nầy, thì vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ làm thật.
Một vị mục sư là bạn
thân của gia đình, cũng đến trước bàn thờ, và đoan chắc rằng bây giờ ông Tư đã
được về với Thiên Chúa. Ông cho rằng thái độ của ông Tư trước cái chết rất sáng
suốt, đáng khâm phục, và đáng được mọi người noi theo.
Một vị sư già, có bà
con họ hàng với ông Tư, đã từng viết nhiều sách Phật và rao giảng đạo từ bi, nói
trước linh vị :
- Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ. Bởi linh hồn thí chủ đã thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng bận cõi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản ra đi như kẽ đi chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đã hiểu thấu đáo cái lẽ vô thường trong đạo pháp.
- Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ. Bởi linh hồn thí chủ đã thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng bận cõi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản ra đi như kẽ đi chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đã hiểu thấu đáo cái lẽ vô thường trong đạo pháp.
Mọi người ra về, lòng
nhẹ nhàng, tưởng như đi trong mơ. Từ phía nhà ông Tư, còn vang vọng nhạc vui đưa
tiển đám tang khách.
Khi tôi chết, viếng
tang đừng buồn bã
Cười cho to, kể chuyện tếu vui đùa ,
Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi tiễn đưa.
Cười cho to, kể chuyện tếu vui đùa ,
Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi tiễn đưa.
Cuộc đời này chỉ là 1 giấc mơ. Có nhiều
người đang sống, nhưng vẫn còn mơ...
Đến khi bịnh hoạn lên giường nằm rồi,
mới nhìn lại được quãng đời mình.
Như 1 cuốn phim, quay
chậm...
Cuộc vui nào rồi cũng tàn, họp mặt nào rồi
cũng chia xa, hạnh phúc nào rồi cũng ly tan.
Và con người nào rồi cũng trở thành
cát bụi. Đây là luật Vô Thường - không ai thoát được.
Có quán niệm được điều này (không qua nói
miệng) trong mổi ngày, trong hành động, và từng hơi thở..
Thì sẽ tìm được hạnh phúc không
xa...
Binh Bét Sưu Tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét